Wednesday, October 14, 2009

Những ban nhạc nổi tiếng nhất thế giới ( Phần 4)

6. Scorpions



Scorpions là một trong những nhóm nhạc hard rock huyền thoại của thập niên 1980. Quê hương của nhóm là thành phố Hannover, Đức. Được thành lập từ thập niên 1970, đến nay nhóm đã bán được hơn 75 triệu album trên toàn thế giới[1]. Được nhiều người biết đến qua những ca khúc rock ballad và rock alternative như Holidays, You And I, Wind of Change và Still Loving You.

Những ngày đầu tiên (1965-1973)

Hình thành

Nhóm Scorpions được thành lập năm 1965 bởi Rudolf Schenker, cây ghita chính của nhóm. Giai đoạn đầu nhóm tạo được một số thành công nhỏ, và Rudolf Schenker đảm nhiệm vai trò hát chính. Năm 1969, em trai của Schenker là Micheal và giọng hát chính của nhóm hiện tại Klaus Meine tham gia nhóm. Năm 1972, nhóm thu âm và cho ra đời album đầu tiên của mình Lonesome Crow, trong đó Lothar Heimberg đảm nhiệm đánh ghita bass và Wolfgang Dziony đánh trống.

Khó khăn

Trong thời gian tour diễn Lonesome Crow đang diễn ra, Scorpions đã mời nhóm nhạc đang lên của Anh lúc bấy giờ là nhóm UFO. Cuối tour diễn, UFO đã mời Micheal Schenker vào vị trí ghita chính của nhóm, và anh đã đồng ý. Uli Roth tạm thời đảm nhiệm vị trí của Micheal Schenker để hoàn tất tour diễn.

Sự ra đi của Micheal Schenker dẫn đến sự tan rã của nhóm Scorpions. Năm 1973, Uli Roth được Rudolf Schenker mời vào vị trí ghita chính. Tuy đồng ý nhưng anh vẫn còn chơi cho ban nhạc cũ của mình, ban Dawn Road. Điều này dẫn đến sự trì trệ và xuống dốc của Scorpions.

Scorpions thế hệ thứ hai

Sau một vài lần tham dự những buổi tập của nhóm Dawn Road, Rudolf Schenker đã quyết định tham gia nhóm Dawn Road, lúc đó đang có Francis Buchholz - ghita bass, Achim Kirschning - keyboard và Jurgen Rosenthal - trống. Sau đó Klaus Meine cũng tham gia nhóm với vị trí hát chính. Khi này, nhóm đã quyết định đổi tên nhóm từ Dawn Road thành Scorpions, bởi vì tên tuổi của Scorpions đã khá nổi tiếng trong làng Hard Rock của Đức lúc bấy giờ. Scorpions thế hệ thứ hai ra đời.

Đến với công chúng (1974-1978)


Năm 1974, nhóm Scorpions thế hệ thứ hai đã cho ra đời album Fly to the Rainbow. Album thứ hai đạt được nhiều thành công hơn album Lonesome Crow, và những bài hát như "Speedy's Coming" và những bài khác đã hình thành nên vị trí vững chắc cho dòng nhạc của nhóm. Sau khi hoàn tất bản ghi âm, Achim Kirschning quyết định rời khỏi nhóm. Chẳng bao lâu sau, Jürgen Rosenthal cũng rời nhóm để thực hiện nghĩa vụ quân sự (sau đó năm 1976 anh đã tham gia vào nhóm Eloy, một nhóm progressive rock ở Đức và đã thu ba album với nhóm này). Sau khi anh ra đi, một tay trống người Bỉ, Rudy Lenners được mời vào lấp vị trí trống.

Năm 1975, nhóm đã tiến một bước dài với sự ra đời của album In Trance. Album này đánh dấu sự hợp tác lâu dài giữa nhóm Scorpions với nhà sản xuất người Đức, Dieter Dierks. Với bước tiến mạnh mẽ này, Scorpions đã khẳng định vị trí vững chắc của mình trong làng hard rock, và thu hút được một lượng lớn người hâm mộ, cả trong nước lẫn ngoài nước.


Năm 1976, nhóm phát hành album Virgin Killer. Bìa album là hình khỏa thân của một cô gái tuổi xuân thì được che lại bởi những mảnh kính vỡ, được thiết kế bởi RCA Records. Hình bìa đó đã tạo nên một sự chỉ trích lớn, và hầu như bị thay thế hoặc hủy bỏ ở một số quốc gia. Trái ngược với những cuộc tranh cãi về hình bìa ấy, album vẫn được giới phê bình và người hâm mộ đánh giá rất cao. Một năm sau đó Rudy Lenners phải rời nhóm vì lý do sức khỏe và Herman Rarebell thay thế anh.

Trong album tiếp theo Taken by Force, RCA Records đã nỗ lực quảng bá cho album trên qua các cửa hàng đĩa và đài radio. RCA cũng theo sát việc thiết kế bìa album để tránh các cuộc tranh cãi bằng cách dùng một tấm hình chụp có ghi tên mỗi thành viên bên dưới hình của họ. Roth tỏ ra không thích với việc định hướng thương mại mà nhóm đang hướng đến. Và mặc dù anh vẫn tham gia tour diễn ở Nhật, anh đã rời nhóm để diễn cho nhóm riêng của mình, nhóm Electric Sun. Và album live Tokyo Tapes ra đời bằng sự kết hợp của hai nhóm nhạc trên. Tokyo Tapes được phát hành ở Mỹ và Châu Âu sáu tháng trước khi phiên bản tiếng Nhật ra lò. Vào giữa năm 1978, sau khi tổ chức một buổi thi giữa 140 nhạc công ghita, Scorpions đã chiêu mộ một thành viên đánh ghita mới, Matthias Jabs.

Tiếp nối thành công (1979 - 1990)

Sau khi Jabs gia nhập nhóm, Scorpions đã rời RCA để đến với hãng Mercury Records để chuẩn bị cho bản thu âm kế tiếp. Chỉ vài tuần sau khi bị buộc rời khỏi nhóm UFO vì nghiện rượu, Micheal Schenker đã quay trở lại nhóm trong một thời gian ngắn trong suốt bản thu âm, tạo nên bộ ba ghita (mặc dù những đóng góp của Micheal khi phát hành chỉ vẻn vẹn có ba bài). Thành quả của cả nhóm đã được đền đáp xứng đáng khi album Lovedrive ra đời được giới phê bình đánh giá là đỉnh cao nhất trong sự nghiệp của họ[2]. Bao gồm những ca khúc được nhiều người hâm mộ yêu thích như “Loving You Sunday Morning”, “Holiday” và bản hòa tấu “Coast to Coast”, qua đó “công thức Scorpions” về phong cách phối nhạc hard rock với những giai điệu ballad đã được gắn kết một cách hoàn hảo. Hình bìa album “đầy khiêu khích” đã được gán danh hiệu “Bìa album của năm” theo bình chọn của tạp chí Playboy năm 1979, nhưng sau cùng đã được thay thế trong bản phát hành ở Mỹ. Lovedrive đạt vị trí thứ 55 trong bảng xếp hạng ở Mỹ đã chứng tỏ sự thành công của Scorpions trên thị trường quốc tế. Hoàn tất album, nhóm quyết định giữ lại Micheal, do đó Matthias Jabs buộc phải rời nhóm. Nhưng chỉ sau vài tuần của tour diễn, Micheal vẫn tiếp tục nghiện rượu, và làm mất một vài hợp đồng và đôi khi vắng mặt trên sàn diễn, những lúc như thế Matthias Jabs được đưa về lại để lấp chỗ trống của Micheal. Tháng 4 năm 1979, Matthias Jabs chính thức thay thế hoàn toàn vị trí của Micheal Schenker.

Năm 1980, nhóm phát hành album Animal Magnetism, và tiếp tục với một bìa album khiêu khích hình một cô gái quỳ trước mặt một chàng trai. Khi Animal Magnetism cũng là những bài mang hơi hướm cổ điển như “The Zoo” và “Make It Real”, sẽ hơi thất vọng khi so sánh nó với album Lovedrive. Chẳng bao lâu khi phát hành album, Klaus Meine bị một bệnh nghiêm trọng ở cổ họng. Anh cần phải thực hiện một ca phẫu thuật ở dây thanh âm và vấn đề nằm ở việc có thể anh sẽ không thể hát được nữa.

Trong khi chờ đợi Klaus Meine hoàn toàn bình phục, nhóm bắt tay vào thực hiện album tiếp theo, album Blackout vào năm 1982. Don Dokken, ca sĩ có chất giọng giống Klaus, đã được mời tham gia thực hiện việc hát nền. Cuối cùng, Meine đã hoàn toàn bình phục kịp lúc để hoàn tất album. ‘’Blackout’’ ra đời nhanh chóng trở thành album bán chạy nhất của nhóm vào thời điểm đó. Giọng của Meine không hề có một dấu hiệu suy yếu, và giới phê bình đánh giá tốt về album. Có 3 đĩa đơn trong album là “Dynamite”, “Blackout” và “No One Like You”.

Vào đầu năm 1984, với sự ra đời của Love at First Sting, nhóm đã tự xây cho mình một tượng đài, đưa tên tuổi mình vào danh sách những siêu sao nhạc Rock. Đĩa đơn “Rock You Like a Hurricane” như chiếc mũi tàu mạnh mẽ, đẩy Love at First Sting từng bước leo lên các bảng xếp hạng và đạt hai đĩa bạch kim ở Mỹ chỉ vài tháng sau khi phát hành. Nhưng, dường như Scorpions đã cố tình khuấy lên một đợt tranh cãi mới với hình bìa đầy khiêu khích. Lần này là hình một chàng trai hôn cô gái và cùng lúc đó di chuyển tay theo hình xăm trên cái đùi trần của cô gái. Nhiều tiệm đĩa đã từ chối bán album, vì nói nó nhại theo một lời nói trong bộ phim châm biếm ‘’This Is Spinal Tap’’ ra đời cùng năm. MTV đã chiếu những bản video của các ca khúc “Rock You Like a Hurricane”, “Bad Boys Running Wild”, “Big City Nights”, và bản power ballad bất hủ “Still Loving You” đã đóng góp rất lớn cho sự thành công của album. Kênh truyền hình này đã đặt cho Scorpions nickname “Đại sứ của nhạc Rock”. Ban nhạc lưu diễn khắp nơi sau đó và quyết định thu âm và phát hành album live thứ hai vào năm 1985. Ghi âm suốt một năm lưu diễn khắp thế giới, World Wide Live phát hành lúc nhóm nhạc đang ở đỉnh cao của sự nổi tiếng, album thành công và đạt vị trí 17 trên bảng xếp hạng.

Kết thúc lưu diễn, nhóm quyết định quay về phòng thu để ghi âm album Savage Amusement. Phát hành vào năm 1988, bốn năm sau album thu tại phòng thu trước của họ. Savage amusement thể hiện một dòng nhạc pop bóng bẩy giống với phong cách của Def Leppard. Album bán chạy, nhưng giới phê bình tỏ ra không hài lòng.

Vào dịp tour diễn giới thiệu album Savage Amusement năm 1988, Scorpions trở thành ban nhạc Tây Âu thứ hai biểu diễn tại Liên Xô (ban nhạc đầu tiên là Uriah Heep vào tháng 12 năm 1987), được tổ chức tại Lenningrad. Vào năm tiếp theo, nhóm quay lại đó và biểu diễn cho chương trình “Liên hoan Âm nhạc Hòa bình Moscow”. Qua đó, nhóm đã gây dựng được một lượng người hâm mộ lớn và thường xuyên quay về biểu diễn xuyên lục địa.

Với hi vọng tách biệt nhóm với phong cách trong Savage Amusement, nhóm đã quyết định rời nhà sản xuất lâu năm của họ và thành viên thứ 6 của nhóm, Dieter Dierks, và Keith Olsen thay thế vị trí của anh trong phòng thu năm 1990. Crazy World được phát hành cùng năm và cho thấy một dòng nhạc ít bong bẩy hơn. Album là một hit lớn thúc đẩy sự thành công rộng lớn của bản ballad “Wind of Change”. Bài hát nói về sự thay đổi thể chế chính trị diễn ra ở các quốc gia Đông Âu và một vài bộ phận khác của thế giới sau kết thúc của chiến tranh lạnh. Ngày 21 tháng 7 năm 1990, nhóm đã tham gia vào chương trình biểu diễn lớn của Roger Waters tại bức tường Berlin. Sau Crazy World tour, Francis Buchholz, thành viên lâu năm nhất của nhóm, đã ra đi.

Thăng trầm (1993-2003)

Năm 1993, Scorpions phát hành Face the Heat. Phần đệm bass được giao cho Ralph Rieckermann. Nhà sản xuất Bruce Fairbairn đã được mời thực hiện quá trình thu âm. Dòng nhạc của album đã có chất metal nhiều hơn chất melody và chia số người hâm mộ nhóm hiện có ra hai hướng. Một số tỏ ra thích album này trong khi những người hâm mộ lâu năm tỏ ra thất vọng. Do đó cả đĩa đơn “Alien Nation” lẫn bản ballad “Under The Same Sun” đều không đạt được đến thành công như “Wind of Change”. Face the Heat là một album thành công vừa phải.

Năm 1995, album live Live Bites ra đời. Đĩa tập hợp những bài hát biểu diễn từ những tour diễn cho album Savage Amusement vào năm 1988 cho đến những tour diễn cho Face the Heat năm 1994. Tuy album có những âm thanh trong suốt hơn so với album live best-selling của nhóm là World Wide Live, nhưng nó không thành công.

Trước khi thu album thứ 13 của nhóm, tay trống Herman Rarebell rời nhóm để ra lập một hang thu âm. Curt Cress gánh vác vị trí đó tạm thời trước khi James Kottak, tay trống người Thỗ Nhĩ Kỳ chính thức đảm nhận nó. Album phát hành năm 1996, Pure Instinct, nó được xem là câu trả lời cho những người hâm mộ phàn nàn về album Face the Heat. Album này có nhiều bản ballad. Đĩa đơn “Wild Child” và bản ballad êm diệu “You and I” đều đạt được những thành công vừa phải. Năm 1999 chứng kiến sự ra đời của album Eye II Eye và một sự thay đổi quan trọng trong phong cách của ban nhạc, phối pop và techno. Trong khi album được sản xuất một cách suôn sẻ, người hâm mộ tỏ ra không hài long với tất cả mọi thứ trong album từ các giọng hát nền kiểu pop-soul đến tiếng trống điện tử

Năm tiếp theo, Scorpions đã có một sự kết hợp hoàn hảo và thành công với đoàn giao hưởng Berlin Philharmonic, cho ra đời 10 ca khúc trong album Moment of Glory. Album đã bước một bước rất dài để lấy lại tiếng tăm sau những lời chỉ trích khó nghe từ album ‘’Eye II Eye’’. Nhưng một lần nữa, giới phê bình lại lên án nhóm đã bắt chước phong cách album S&M của Metallica kết hợp với đoàn giao hưởng San Francisco Symphony đã được phát hành vào năm trước. Dù sao đi nữa những bản giao hưởng đó đã tiến đến đúng với những ý tưởng của Scorpions vào năm 1995.

Năm 2001, Scorpions phát hành Acoustica, một album live acoustic làm lại những bản hit lớn của nhóm và thêm một vài bài mới. Được đánh giá tốt bởi người hâm mộ, nhưng việc thiếu một album phòng thu đã làm nản long số còn lại. Dù sao đi nữa, Acoustica đã góp một phần nhỏ trong việc đưa ban nhạc trở lại đỉnh vinh quang.

"Không thể phá vỡ" (2004-nay)

Năm 2004, ban nhạc phát hành Unbreakable (Không thể phá vỡ), một album được giới phê bình đổ dồn như mưa đá là một sự chờ đợi lâu dài cho một sự trở lại hoành tráng. Đây là album metal nặng nhất mà nhóm đã phát hành kể từ album Face the Heat, và người hâm mộ tỏ ra rất thích các ca khúc như “New Generation”, “Love ‘em or Leave ‘em” và “Deep and Dark”. Nhóm đi tour nhiều sau album, và chơi như khách mời đặc biệt với Judas Priest suốt chuyến lưu diễn Anh quốc năm 2005.

Vào đầu năm 2006, Scorpions phát hành đĩa DVD 1 Night in Vienna bao gồm 14 ca khúc live và một bộ phim tư liệu rock đầy đủ. Tại Los Angeles, ban nhạc đã dành 4 tháng trong phòng thu với nhà sản xuất James Micheal và Desmond Child để chuẩn bị cho album mới của họ Humanity – Hour I, sẽ được phát hành vào giữa tháng 5 năm 2007. Một tour diễn “Humanity World” cũng đã được lên kế hoạch.

Năm 2007, ban nhạc được thấy 2 ca khúc tên tuổi của mình trong các trò chơi game video nổi tiếng “Guitar Hero”. Bài hát “No One Like You” có trong phiên bản “Rocks the 80’s” của trò chơi trong khi “Rock You Like A Hurricane” được phát hành trong “Guitar Hero 3: Legends of Rock”.

Vào ngày 14 tháng 5 năm 2007, Scorpions phát hành Humanity – Hour I tại Châu Âu. ‘’Humanity – Hour I’’ có mặt ở Mỹ vào ngày 28 tháng 8 năm 2007 tại hãng thu âm New Door, lọt vào bảng xếp hạng Billboard với vị trí 63.

Qua hai album Unbreakable và Humanity - Hour I, Scorpions đã chứng tỏ được vị trí lâu dài của mình trong lòng người hâm mộ. Và những người hâm mộ đang chờ đợi sự ra đời của Humanity - Hour II. Nhưng theo lời Klaus Meine, hát chính của nhóm, thì nhóm sẽ tạm nghỉ ngơi một thời gian trước khi bắt tay vào các kế hoạch mới.

Thành viên

Thành viên hiện tại

* Klaus Meine - hát chính, hát bè, ghita đệm, bộ gõ (1970-1981, 1981-nay)
* Matthias Jabs - ghita chính - ghita đệm, ghita 6 & 12 dây, ghita trượt, jazz ghita, talk box (1978-1979, 1979-nay)
* Rudolf Schenker - ghita chính - ghita đệm, ghita 6 & 12 dây, sáo Sitar, ebo, hát nền (1965-nay) ghita chính - ghita đệm, hát chính (1965-1970, 1970-nay)
* Paweł Mąciwoda - ghita bass (2003-nay)
* James Kottak - trống, bộ gõ, hát nền (1996-nay)

Thành viên cũ

* Francis Buchholz - ghita bass (1973-1983, 1984-1992, 1994)
* Herman Rarebell - trống, bộ gõ (1977-1983, 1984-1995)
* Ralph Rieckermann - ghita bass (1993-2000, 2000-2003)
* Lothar Heimberg - ghita bass (1965-1973)
* Wolfgang Dziony - trống, bộ gõ (1965-1973)
* Joe Wyman - trống, bộ gõ (1973)
* Ulrich Roth - ghita chính - ghita đệm, hát bè, hát chính trong bài "Polar Nights", "Fly to the Rainbow", "Dark Lady" (1973-1978)
* Michael Schenker - ghita chính - ghita đệm (1970-1973,1979)
* Rudy Lenners - trống, bộ gõ (1975-1977)
* Jürgen Rosenthal - trống, bộ gõ (1973-1975)
* Ken Taylor - ghita bass (2000)
* Curt Cress - trống, bộ gõ (1996)
* Jimmy Bain - ghita bass (1983-1984)
* Neil Murray - ghita bass (1983-1984)
* Bobby Rondinelli - trống, bộ gõ (1983-1984)
* Barry Sparks - ghita bass (2003)
* Ingo Powitzer - ghita bass (2003)
* Don Dokken - hát chính, hát bè (1981)

Các album studio và album live

* Lonesome Crow (1972)
* Fly to the Rainbow (1974)
* In Trance (1975)
* Virgin Killer (1976)
* Taken by Force (1977)
* Tokyo Tapes (1978, live)
* Lovedrive (1979)
* Animal Magnetism (1980)
* Blackout (1982)
* Love at First Sting (1984)
* World Wide Live (1985, live)
* Savage Amusement (1988)
* Crazy World (1990)
* Face the Heat (1993)
* Live Bites (1995, live)
* Pure Instinct (1996)
* Eye II Eye (1999)
* Moment of Glory (với Berlin Philharmonic, 2000)
* Acoustica (acoustic, 2001)
* Unbreakable (2004)
* Humanity: Hour I (2007)

Album biên tập lại

* Best of Scorpions (1978/1984) # 180 US
* Rock Galaxy (1980)
* Hot & Heavy (1982)
* Best of Scorpions Vol. 2 (1984) # 175 US
* Still Loving You (1 EP : 1 Single) (1984)
* Gold Ballads (1985) # 25 Germany
* Best of Rockers 'n' Ballads (1989) # 43 US, # 14 Germany; Certifications: US: Platinum, Germany: Gold
* Hurricane Rock (Collection 1974-1988) (1990)
* Wind of Change (Japanese Compilation) (1991)
* Hot & Slow: The Best of the Ballads (1991)
* Still Loving You (1992) # 18 Germany
* Hot & Hard (1993)
* Selection (1993)
* Deadly Sting (1995) # 28 Germany
* Born To Touch Your Feelings (1995)
* Deadly Sting: The Mercury Years (1997)
* Hot & Slow: Best Masters of the 70's (1998)
* Big City Nights (1998)
* Master Series (1998)
* Best (1999)
* The Millennium Collection (Asian compilation) (1999)
* Pictured Life: All The Best (2000)
* 20th Century Masters: The Millennium Collection: The Best of Scorpions (2001)
* Classic Bites / Wind of Change (2002)
* The Essential (2003)
* Bad for Good: The Very Best of Scorpions (2002) # 161 US
* Box Of Scorpions (2004)
* The Platinum Collection (2005)
* Gold (2006)
* No. 1's (Korean Collection) (2006)


7. Eagles



Eagles là ban nhạc rock của Mỹ, thành lập tại Los Angeles, bang California vào đầu thập niên 1970. Với năm đĩa đơn và bốn album dành vị trí số một, Eagles là một trong các nghệ sỹ ghi âm thành công nhất của thập niên 1970. Cuối thế kỷ 20, hai trong số các album của họ, Eagles: Their Greatest Hits 1971–1975 và Hotel California, đã được xếp vào danh sách 10 album bán chạy nhất theo thống kê của Hiệp hội ngành Thu âm Mỹ ( Recording Industry Association of America). Album phòng thu bán chạy nhất của họ Hotel California được xếp hạng thứ 37 trong danh sách 500 Ablum vĩ đại nhất mọi thời đại của tạp chí Rolling Stone, và ban nhạc được xếp vị trí 75 trong danh sách do tạp chí Rolling Stone bình chọn năm 2004 100 Nghệ sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại.[1] They are also the best-selling American group ever, with Eagles: Their Greatest Hits 1971–1975 being the best-selling album in the U.S. to date.[2][3]

The Eagles tan rã vào năm 1980, nhưng đã tái hợp vào năm 1994 với album Hell Freezes Over, một bản mix của những bài hát live và bài hát phòng thu. Họ đã lưu diễn không liên tục kể từ đó, và sau được đưa vào Rock and Roll Hall of Fame năm 1998.

Năm 2007, ban nhạc Eagles phát hành album Long Road Out of Eden, album phòng thu đầu tiên của họ sau 28 năm.

Thành viên

* Glenn Frey – guitar, vocals, keyboards
* Joe Walsh – guitar, vocals, keyboards, talk box
* Timothy B. Schmit – bass, vocals
* Don Henley – drums, vocals


Thành viên cũ

Don Felder – guitar, vocals
Randy Meisner – bass, vocals
Bernie Leadon – guitar, vocals, banjo, mandolin, pedal steel guitar


(còn tiếp)

No comments: