Thứ nhất ko ai xếp nhạc Scop là alternative và họ nổi tiếng trước năm 80 khoảng 12 năm
Thứ hai Eagles không phải là 1 band nhạc rock
còn nó là j tác giả nên tự tìm câu trả lời
------------------------------------------------
Nirvana
Band nhạc Nirvana gắn liền với cái tên Kurt Coibain và album Nevermind đã chính thức hạ bệ ông hoàng nhạc POP M.Jackson
Kurt Cobain sinh ngày 20/2/1967 tại Hoquiam , sau đó gia đình anh đã
chuyển đến Aberdeen , 1 thị trấn cách thành phố Seattle 150km về phía Tây bắc trên bờ biển Thái Bình Dương .
Khi Cobain được 7 tuổi thì cha mẹ anh ly dị , vết thương đó đã khắc sâu trong lòng của anh , và trong tiềm thức của mình , Cobain đã ko bao giờ có cảm giác được yêu thương , che chở . Anh nói :" Tôi là 1 đứa trẻ ốm yếu , thường xuyên bị hành hạ bởi bệnh viêm phế quản nên hay cáu gắt , sống thu mình và xa lánh xã hội ".
Lên 11 tuổi , Cobain đã được nghe và bị cuốn hút bởi ban nhạc Sex Pistols . Đây là ban nhạc đầu tiên chơi thể loại nhạc Punk . Tại Anh , Punk trở thành 1 hiện tượng bùng nổ rộng khắp , nhạc của họ đã thổi được những luồng sinh khí cho những người ốm yếu , tật nguyền , những người ko có được sự yêu thương , che chở và chịu nhiều mất mát trong cuộc sống .
Cobain cùng Krist Novoselic_linh hồn ban nhạc của mình và 1 số bạn bè đã vực dậy 1 trào lưu âm nhạc mới của những ban nhạc Anh quốc như The Dammed , The Raincoast và Joy Division . Nhạc của Nirvana được định hướng từ thể loại nhạc post punk này .Đây là giai đoạn mà dòng nhạc punk xuất hiện những ca khúc hay và những giai điệu lạ .
Vào thời điểm mà Cobain bắt đầu tìm ra phong cách nhạc cho chính mình thì cũng là lúc anh gặp phải những nỗi phiền muộn và bi quan trong cuộc sống Ban nhạc Nirvana được chính thức thành lập năm 1986 , đến năm 1988 , họ đã có băng demo riêng cho mình . Tới năm 1989 , họ đã thực sự tiến bộ với " Bleach " đĩa thu thanh đầu tiên của của ban nhạc được thực hiện bởi Sub Pob, một hãng đĩa độc lập. Trong album của họ "Unplugged in New York" phát hành năm 1994, Cobain giới thiệu một ca khúc nằm trong đĩa nhạc "Bleach", ca khúc này mang phong cách nhạc đặc trưng của Nirvana: nhấm nhẳng méo mó. Nirvana đã ký hợp đồng với hãng đĩa Geffen, một hãng đĩa lớn và họ là ban nhạc không chính thống đầu tiên làm được việc đó. Năm 1991 sự ra đời của album Nevermind" và đĩa đơn "Smell like teen spirit" như một luồn điện kích thích đến đông đảo giới trẻ trên toàn thé giới, album đã đoạt được đĩa Bạch Kim và được đề cử nhiều giải.
Nhưng sau những thành công rực rỡ , chẳng bao lâu người ta đã nhận ra rằng chàng ca sĩ 24 tuổi trông yếu ốm và quá nhạy cảm này lại ko có được lối sống lành mạnh . Có lần Cobain đã thú nhận rằng :" Nếu 1 ngôi sao ca nhạc rock có tới 101 cách sống , tôi vẫn có lối sống của riêng mình ." Đời sống mệt mỏi vì tính thương mại của âm nhạc và việc kiếm tiền dễ dàng đã càng làm tăng thêm sự nghiện ngập của Cobain . Ở nơi sâu tận đáy lòng và trong tâm trí của Cobain , những nỗi đau dường như càng tăng thêm , ma tuý đã ko giúp anh nguôi ngoai đi mà nó lại chính là nguyên nhân của những nỗi bất bình và cáu giận âm ỉ , anh đã chịu đựng nó như 1 vết thương dai dẳng , tàn phá suốt cuộc đời . Các ca khúc của CObain được thống nhất qua các tính chất mạnh mẽ , dữ dội như kêu gào với những ca khúc sắc sảo tưởng chừng trong âm nhạc cũng ko có giây phút thảnh thơi . Hơn bao giờ hết , sự mỉa mai của Cobain nhằm vào cuộc sống qua những sáng tác đang dần trở thành 1 con quái vật ko thể kiểm soát nổi . Những âm thanh dữ dội , khó nghe đến chói tai , những đoạn guitar trầm đục đặc trưng kết hợp với lối hát khi thì la hét om sòm , lúc lại rền rĩ , nó toát lên 1 tính chất giận dữ , ầm ĩ chính là nhạc của Nirvana . nhưng tất cả những cái đó lại cuốn hút được giới trẻ và lớp người bất mãn . Cobain đã gây nên 1 chấn động khi cho ra đời ca khúc " Polly " . Sau đó ít lâu , Cobain kêu gọi các fan của mình bằng đôi dòng chú thích trên bìa 1 album rằng :" Nếu bạn là 1 người ko quý trọng phụ nữ và những người da đen , ko thông cảm với những kẻ đồng tính luyến ái thì xin hãy để cho họ và chúng tôi được yên ". Lời kêu gọi của Cobain vô giá trị và cũng như bao nghệ sĩ khác , qua 1 đêm , Cobain chợt nhận ra rằng anh chỉ là 1 người có được chút ít quyền lực .
Album " Nevermind " đã mang về cho Cobain 50 triệu đô la , nhưng cuộc sống của Cobain giờ đây đã hoàn toàn trở nên hỗn độn . Ngày 22/2/1992 , anh đã tới Hawai và cưới Courtney Love , trụ cột của nhóm Hole . Sau đó ít lâu , Nirvana phát hành " Insecticide " , 1 đĩa nhạc tổng hợp qua nhiều sáng tác . Tháng 8 năm đó , Cobain đã phải vào viện để điều trị vì ma tuý và chính lúc này , bé Frances Bean Cobain ra đời . Vào năm 1993 , album " InUtero " phát hành và chiếm ngay vị trí số 1 . Nirvana lên đường cho 1 chuyến lưu diễn từ thiện và chuẩn bị thu thanh , ghi hình cho buổi biểu diễn " Unplugged " của họ trên MTV , buổi biểu diễn đã thuyết phục được cả những khán thính giả trước đây coi thường Cobain như 1 kẻ bất tài gặp may . Vào mùa Đông cuối năm 1993 , Nirvana bắt đầu chuyến lưu diễn khắp Châu Âu . Sau hơn 20 buổi biểu diễn , cổ họng của Cobain có vấn đề và lịch trình diễn đã bị gián đoạn . Ngày 4/3/1994 , Cobain được đưa vào bệnh viện cấp cứu trong tình trạng hôn mê , sau đó Cobain trở về Settle .
Vào cuối tháng 3/1994 , chìm trong hố sâu tuyệt vọng , Cobain đồng ý đi điều trị 1 lần nữa và tại nơi đây , những người thân và bạn bè đã cùng anh vật lộn chống lại những cơn nghiện . Diều trị được nửa chừng , Cobain đột nhiên bỏ trốn và rồi biến mất . Ngày 8/4 , Cobain đã tự nhốt mình trong căn phòng sau biệt thự của mình rồi kê súng vào miệng _ bum ! ngay sáng hđó , hàng triệu người hâm mộ đã có mặt tại nơi Cobain tự vẫn . Với các fan trẻ tuổi thì ko gì có thể làm dịu bớt nỗi đau buồn của họ , ở Mỹ và Úc , 1 số fan quá khích đã tự tử theo .
Cái chết của Joplin , Marrison , Hendrix...là thảm trạng của 1 thế hệ rock'n'roll do lạm dụng vô đọ ko rượu thì ma tuý hoặc cả 2 . Nhưng còn cái chết của Cobain hoàn toàn do sự mất mát . Thiếu thốn tình cảm suốt cả 1 đời , trong tâm hồn Cobain hầu như ko có được sự yêu thương , và che chở của cha mẹ . Cobain có lòng tự trọng , có cuộc sống độc lập , tự lo toan cho tương lai và sức khoẻ ngay từ nhỏ . Nhưng Cobain đã tự ti , mặc cảm khi biết rằng bọn trẻ hâm mộ anh đã nhận ra 1 sự thật quá rõ về thần tượng của chúng . Cobain giống như họ và họ cũng giống như Cobain , đều cảm thấy bị lừa dối bới những gì mà Cobain đã làm .
Ttrước khi tự sát , những lúc ngồi 1 mình trong tâm trạng rối bời , bấn loạn hay minh mẫn , mong được cảm thông hay buồn vô vọng , Cobain đã lần lượt ghi lại hầu như đầy đủ mọi sự kiện trong cuộc sống , từ những niềm vui cho dến nỗi buồn của anh . Phải chăng Cobain đã tự dằn vặt mình khi viết :" Bạn là người dễ dàng vượt qua mọi rắc rối , vậy hãy thoát ra khỏi điều rắc rối mà chính bạn đang mắc phải ".
Grunge - đầm lầy hớp nhúa của những bóp méo đến cực đoan, nó vĩ đại chẳng kém gì Heavy Metal hay Punk. Phần lyric của nó thì sao nhỉ ??? Chẳng khác gì một đứa trẻ khóc gào khi giận dữ vì bị bỏ rơi. Grunge ra đời bởi sự đau đớn của cả một thế hệ khác hẳn với quang cảnh của rock LA trước nó vốn đang tung hoành trên cái thứ tự cao tự đại - thuyết duy ngã độc tôn.
Được đặt nền móng đầu tiên vào giữa những năm 80 tại một vùng nhỏ bé Seattle, Grunge đã trở nên vô cùng lớn mạnh trên khắp thế giới vào năm 1991 với “Nevermind” của Nirvana. Nó đã gây ảnh hưởng trên dủ mọi lĩnh vực từ thời trang, âm nhạc và thậm chí cả phim ảnh với những bộ phim như: Singles, Sacker, Reality Bite…Nhưng sau đó ??? Kurt chết, Courtney nhảy vào Hollywood còn Pearl Jam và những ban khác gần như biến mất… Britpop nắm ngay lấy chỗ đứng này…
Nhưng Grunge, đặc biệt là thứ âm nhạc của Kurt Cobain ko chết. Người ta nói rằng, ngay cả một ca khúc Nu metal hiện nay như “My Way” của Limp Bizkit cũng theo một cái “sơ đồ” đã được thiết lập trong “Smells like teen spirit”. Rồi mỗi tháng trên các tạp chí rock lại thấy có một ban mới tuyên bố họ đã chịu ảnh hưởng từ Nirvana và từ Kurt. Cái cần nhấn mạnh trong âm nhạc của Nirvana đó là thái độ Anti-guitarhero của Kurt, nó đã làm thay đổi nhận thức và thái độ của những kẻ chơi guitar trong mọi thể loại. Tại sao vậy ???
Theo Kurt thì kẻ gieo mầm đầu tiên cho Grunge là Melvins - Một trong những nhóm mà anh rất ưa thích. Được thành lập từ năm 1985, Melvins có những âm thanh bị ảnh hưởng từ tay guitar Tony Tommi của Black Sabbath. Đến lượt mình, Kurt đã lấy những chất liệu từ Melvins và kết hợp với những giai điệu khôn ngoan cùng sự nhạy cảm của mình, chúng làm cho Nirvana trở thành ban nhạc vĩ đại nhất vào đầu những năm 90. Nhưng Grunge có thể đã ra đời từ trước Melvins bởi một ban tên là Green River, nó được thành lập ngay từ năm1983. Tại thời điểm này Green River bị coi là một nhóm Post-Punk với các thành viên lúc đó là Mark Arm và Steve Turner (sau này lập nên Mud Honey), Jeff Ament và Stone Gossard (Pearl Jam). Nhóm đã hợp nhất Garage của những năm 80, Heavy Metal của những năm 70 và cả New Wave.
Năm 1983, Kurt chỉ 16 tuổi và đã chơi guitar được 2 năm. Nhưng không như những kẻ đồng trang lứa , Cobain không bao giờ thích sự phù phép chạy ngón tít mù trên cây guitar hay cố ganh đua để trở thành 1 thần đồng guitar. Kurt có cây guitar đầu tiên năm 14 tuổi (1981 – cùng thời gian Metallica được thành lập) “Ngay khi có cây guitar, tôi đã bị nó ám ảnh.” Kurt đã có một vài bài bài học về đàn nhưng sau 1 tháng thì Kurt cảm thấy chán ngấy khi cứ phải chơi đi chơi lại “Black in Black” của AC/DC. Kurt cho rằng những hợp âm E, D, A…đã là rất tốt để chơi nhạc.
Vào năm 1987, Grunge đã bắt đầu tạo nên vóc dáng đầu tiên của mình: Soundgarden đã phát hành đĩa EP đầu tiên “Screaming Life”, Alice In Chains và Tad đã được thành lập. Và Kurt với tay bass Krist Novoselic lập nên Nirvana. 12 tháng sau single đầu tiên của nhóm ra đời: “Love Buzz” nó thật thích hợp để tạo nên những tiếng “vo ve” đầu tiên trong bối cảnh âm nhạc Underground tại Seattle. Album đầu tiên của Nirvana “Bleach” được thu âm với chỉ 600$ đã đâm những nhánh đầu tiên cho nhóm.
Album debut của Nirvana có thứ âm thanh quá giống với những nhóm cùng thời là Mudhoney và Tad, sự đặc quánh quá cực đoan khác hẳn với những gì mà Nirvana cho ra đời sau này. Người ta cho rằng trong album này Kurt đã cố tình gạt đi cái cảm tính của mình để phù hợp với sự ám ảnh vẫn còn từ Metal ở những năm 70. Một phần hai số bài hát của “Nevermind” sau này đã được viết trong thời gian của “Bleach” nhưng đã không được đưa vào album tại ngay thời điểm đó.
Sau khi lưu diễn tay guitar Jason Everman đã rời bỏ nhóm và sang đầu quân cho Soundgarden “Anh ta quá heavy và không chậm rãi như chúng tôi.” Cobain tiếp tục tạo ra những giai điệu mà anh thích thú, kết hợp lại tất cả những gì mà mình bị ảnh hưởng: từ Black Sabbath, The Pixies và Black Flag, rồi thêm vào đó một chút Indie và New Wave của Raincoats, The Vaselines & The Meat Puppets è Những âm thanh của Nirvana. Khi tay trống Chad Channing đi theo Everman rời khỏi ban nhạc và Dave Grohl vào thế chỗ. Họ đã hoàn tất bộ 3 đầy sức công phá của mình, tạo nên thứ âm thanh đặc trưng với phần mở đầu ề à chậm rãi rồi đến chorus thì bật tung lên, lật nhào tất cả với những âm thanh méo mó,… điển hình là “Smell”
Tuy nhiên Nirvana không bao giờ cho rằng họ tạo nên và nghĩ ra tất cả thứ âm nhạc của mình. Kurt luôn nói với các nhà báo rằng anh đã lấy cắp ý tưởng từ The Pixies, còn Dave Grohl cũng cho rằng họ có cái gì đó từ War Pig của Black Sabbath.
Trong khi Nirvana nỗ lực luyện tập 5 ngày một tuần, cố gắng mang tất cả sinh khí của mình vào âm nhạc…Bóng dáng của họ đã lờ mờ rõ nét hơn. Nirvana tham gia vào những tour diễn trong nước và quốc tế đầu tiên. Họ ký hợp đồng với Geffen sau lời giới thiệu của Thurston Moore của Sonic Youth. Nirvana phát hành “Nevermind” – Album được nhắc đến nhiều nhất trong năm và cũng trong cả thập kỷ, nó cùng với “Ten” của Pearl Jam và “Bad Motorfinger” của Soundgarden mang Grunge lên đến đỉnh cao nhất vào năm 1991.
Nhưng cái vĩ đại hơn mà Kurt làm được là nắm bắt lấy sự sáng tạo mới trong cách chơi guitar. Giới trẻ đã được anh truyền cho một cách nhìn mới về âm nhạc mà người ta gọi nó là: “Less-is-More” tạm dịch là: ít nhưng hiệu quả. Tạo nên âm nhạc thực sự từ những bài học guitar phóng đãng mau quên, từ những cây guitar đáng cho vào cửa hàng đồng nát và từ cả những cái pedal âm ly xơ xác từ những năm 70.
Thật mỉa mai cho những cây guitar khủng long với đủ ngón nghề và đủ thứ kỹ xảo. Kurt bất ngờ xuất hiện, thật xoàng xĩnh…nhưng lại khiến mọi tay guitar thời điểm đó phải ganh đua, mọi tạp chí Guitar đều phải hỏi thăm và ca ngợi. Nhưng Kurt luôn tự phủ nhận bản thân khi được hỏi về cách chơi đàn của mình, anh nói với tạp chí Guitar World: “Tôi chỉ đơn thuần chơi theo giai điệu, nhiều lúc tôi còn không theo kịp các giai điệu của ca khúc…nhưng mọi người vẫn thông cảm cho tôi về điều này.”
Sau sự cuồng loạn và kích động của “Nevermind” Nirvana và đặc biệt là Kurt dường như trở nên lo lắng vì khoảng cách của bản thân họ và các sáng tác, chúng đường như được chải chuốt quá bóng mượt sau khi được nhà sản xuất mix. Kurt tâm sự trước khi bắt tay vào album thứ 3 rằng có lúc anh cảm thấy rất chán ghét ban nhạc và thứ âm nhạc đang phải tạo ra. Nirvana quyết định quay trở lại với cái gốc rễ Punk của mình, Kurt mời Steve Albini tham gia sản xuất (đây là người đã sản xuất ra album mà Kurt thích nhất “Surfer Rosa” cho nhóm The Pixies).
Trong “In Utero” Albini đã cố gắng tước bỏ những thứ bị cho là gần giống với những ban khác, kéo sự chú ý tới phần ca từ đau đớn tuyệt vọng của Kurt, mài sắc khả năng viết nhạc để có những giai điệu mạch lạc. Không chau chuốt trong cách chơi guitar, chỉ đơn thuần là những âm thanh từ chiếc Fender rẻ tiền với những âm thanh méo mó. Kurt có thể không có một điềm đam mê mãnh liệt sống chết cùng cây guitar, nhưng lại có thể làm nên những hiệu quả khiến người khác phải đam mê sống chết. Thử kiểm tra lại “Scentless Apprentice”- những âm thanh gầm gừ kéo dọc cần đàn, “Radio Friendly Unit Shifter”- dường như là sự kéo lê móng trên dọc dây đàn cùng với những âm thanh nhiễu chói tai hay đơn giản chỉ là những điệp khúc sâu trong “Heart Shaped Box”…
Sau khi phát hành “In Utero” Nirvana đã được mời chơi Unplugged một buổi cho MTV. Kurt không khoái điều này lắm, không muốn trở thành một ngôi sao trong ánh đèn sân khấu nên Nirvana đã mời Meat Puppets cùng diễn. “Unplugged in NY” là một buổi diễn miễn cưỡng của Kurt với một số bản cover lại các ca khúc từ những nhóm thần tượng của mình (đặc biệt nổi bật là bản “Where did u sleep last night” của Leadbelly), Kurt luôn có sự coi trọng đối với những nhóm mà mình tôn sùng.
!~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~!
này thì cãi nhau này ,
này thì Scorpions này ,
này thì Eagles mà là band nhạc rock
không muốn nói đâu nhưng quả thật tôi không thể chịu nổi một kẻ đi copy về mà cũng hợm hĩnh nói rằng Eagles là band nhạc rock .đi hỏi cả HN xem ,vào rock bụi h chuyển gần ĐH HN trên đườn Nguyễn Trãi,vào ĐH xây dựng ,ra ĐH Thủy Lợi hỏi xem các bậc tiền bối ở đó Eagles có phải là band nhạc rock không nhé.cái kiểu nói đó chỉ đi lòe được mấy em tóc xanh tóc đỏ mới tập tọe nghe rock thôi."Có những con người mới đôi ba tuổi đời cuộc sống mới bắt đầu đã cho rằng mình thấu hết "
----------------------------------------------------
Nước Đức, những năm đầu
thập niên 60. Cũng như
rất nhiều thanh niên bấy giờ, Klaus Meine và Rudolf Schenker đều chịu nhiều ảnh hưởng từ những lối sống mới có nguồn gốc từ Mỹ với những Elvis Presley, quần Jeans, áo Jackets, kẹo cao su ... nhưng trên tất cả những thứ đó vẫn là sự ảnh hưởng từ âm nhạc, mà ở đây là Rock n’ Roll bởi từ khi còn rất trẻ, cả Klaus và Rudolf đã có những niềm đam mê cháy bỏng là được cầm guitar và chơi dưới ánh đèn sân khấu. Đầu năm 1960, The Beatles bắt đầu một cuộc cách mạng về âm nhạc và những làn sóng của cuộc cách mạng này không thể không ảnh hưởng tới những chàng trai mê ca hát ở nước Đức. Thế là năm 1965, cái tên SCORPIONS lần đầu tiên xuất hiện tại Hanover bởi Rudolf Schenker.
Đầu năm 1970, đến lúc này thì Scorpions của Rudolf mới có một đội hình hoàn chỉnh khi em trai của anh là Michael Schenker - một cây guitar rất tài năng đã rời nhóm Corpernicus đến với Scorpions. Cùng với Klaus Meine - một ca sĩ / nhà soạn nhạc Scorpions đã có một đội hình ăn ý, nhất là giữa Rudolf và Klaus. Đến lúc này thì câu chuyện về “Những con bọ cạp” mới thực sự bắt đầu.
Năm 1972, album đầu của Scorpions ra đời với tên gọi “Lonesome Crow”. Ngay từ album đầu tay này Scorpions đã định hình được ngay một phong cách cho riêng mình, những âm thanh dựa trên nền tảng hardrock mà Jimmy Hendrix, Cream, Led Zeppelin đã tạo ra từ những năm 60 nhưng vẫn thể hiện được một Scorpions mới mẻ và khác biệt với hai cây guitar điện, những câu riff mạnh mẽ và solo dào dạt của hai anh em nhà Schenker, giọng hát tao nhã nhưng đầy cảm xúc của Klaus Meine, thêm vào đó là sự góp mặt của những thành viên khác là tay bass Lothar Heimberg và trống Jürgen Rosenthal, thay cho Joe Wyman (1972). Và sau những thành công của Lonesome Crow ban nhạc bắt đầu bước vào con đường đưa tên tuổi của mình lên tầm thế giới khi có những chuyến lưu diễn đầu tiên cùng với Rony Gallagher, Uriah Heep và UFO.
Nhưng năm 1973, sau chuyến lưu diễn với UFO, Michael Schenker có lẽ cảm thấy đây mới chính là ban nhạc hợp với phong cách của mình hơn nên đã rời Scorpions và gia nhập vào band nhạc Anh Quốc này. Và người thay thế anh ở Scorpions là Ulrich Roth, cũng là một tay guitar không kém phần tài giỏi. Cùng với Ulrich Roth, Scorpions tiếp tục thám hiểm con đường Hard Rock mà mình đang theo đuổi.
Bước sang năm 1974, đội hình lại có sự thay đổi một lần nữa với thành viên mới là tay Bass Francis Buchholz, album thứ hai của band hoàn thành – Fly to the Rainbow – album đánh dấu một thứ Rock mạnh mẽ có thể nói là chưa từng thấy ở một Rock band nước Đức bấy giờ. Ca khúc Speedy’s Coming như một ví dụ điển hình cho phong cách của Scorpions lúc bấy giờ: Ultra-hard Rock kết hợp với những giai điệu đầy quyến rũ.
Tiếp sau sự thành công của Fly To The Rainbow là LP thứ 3 của họ mang tên “In Trance” vào năm 1975. Và sau những thành công khá tốt đẹp của In Trance, Scorpions đã bắt đầu có những chuyến lưu diễn khắp châu âu, đội hình của họ lại có sự thay đổi với sự có mặt của tay trống Rudy Lenners.
Album thứ tư Virgin Killer năm 1976 tiếp tục đưa Scorpions lên tới đỉnh cao khi đạt danh hiệu Album của năm tại Đức càng củng cố thêm địa vị dẫn đầu của Scorpions ở đây. Còn ở Nhật Virgin Killer lần đầu tiên mang về cho ban nhạc danh hiệu đĩa vàng. Không chỉ thế, năm 1977 tại đây album tiếp theo Taken by Force cũng mang thêm về một danh hiệu đĩa vàng nữa. Nói thêm một chút, Nhật Bản là một thị trường rất tiềm lớn của Scorpions với rất rất nhiều những ngưòi hâm mộ trung thành của ban nhạc. Và một điều tất yếu, năm 1978 Scorpions có chuyến lưu diễn tại Nhật Bản, chuyến lưu diễn đã cực kỳ thành công. Sau tour diễn này Scorpions đã cho ra đời bộ album live Tokyo Tapes. Năm 1978 này có thể nói là một năm rất thành công của Scorpions nhưng đáng tiếc là trong năm này ban nhạc cũng phải từ rã một số thành viên, sau Tokyo Tapes này là sự góp mặt lân cuối cùng của guitar Ulrich Roth. Trước đó không lâu là sự ra đi của drummer Rudy và thế vào chỗ đó là Herman Rarebell. Còn người thay thế Ulrich là Matthias Jabs, một guitar suất sắc đã được chọn ra từ 140 cây guitar triển vọng khác
Và năm 1979, Lovedrive được ra đời, album đã thành công rực rỡ và trở thành một trong những album suất sắc nhất của ban nhạc. Không chỉ phần âm nhạc, ngay cả Cover của album này cũng nhận được danh hiệu album minh hoạ suất sắc nhất trong năm. Album này có một điểm cần chú ý là có sự góp mặt của guitar cũ Michael Schenker, nhưng anh nhanh chóng lại ra đi và sau đó lập nên ban nhạc MSG vào năm 1980. Scorpions giờ đây đã có một chỗ đứng khá vững chắc ở Châu Âu và Châu Á, và họ bắt đầu nghĩ đến kế hoặc chinh phục thị trường âm nhạc đầy tiềm năng là Mĩ. Đây là một điều hoàn toàn không nằm ngoài khả năng của họ, bởi trong tay họ là tài năng và cách làm việc của những nghệ sĩ chuyên nghiệp, những quyết định táo bạo nhưng vững chắc để xây dựng nên thành công
Những năm 80, Mĩ là một thị trường âm nhạc rộng lớn và đầy tiềm năng cho hard và heavy rock. Kể từ năm 1974 thì tên tuổi của Scorpions đã được biết đến khá nhiều tại đây. Van Halen đã khởi đầu sự nghiệp của mình bằng cách cover lại các hits của Scorpions như Speedy’s Coming (Fly to rainbow) và Catch Your Train (Virgin Killer). Năm 1979, sau những thành công to lớn của Virgin Killer ban nhạc đã có một tour diễn lần đầu tiên tại Mĩ cùng với Aerosmith, Ted Nugent và AC/DC. Tuy chỉ trong vai trò mở màn những trong những tour diễn này, nhưng Scorpions đã học tập được rất nhiều cả về chuyên môn lẫn trong công việc thương mại để xây dựng những thành công trong lang rock thế giới. Album thứ bảy của họ Lovedrive đã được phát hành lại một lần nữa ở Mỹ và mang về cho Scorpions đanh hiệu đĩa vang đầu tiên ở đây. Ngay sau đó là album Animal Magnetism vào năm 1980 đã gần hoàn thành công cuộc chinh phục Bắc Mĩ của ban nhạc. Tour diễn thứ hai tại Mỹ đưa Scorpions lên hàng đầu những bản xếp hạng. Và sau đó là hàng loạt những tour diễn khổng lồ khác diễn ra càng củng cố thêm địa vị và thành công cho ban nhạc.
Năm 1982, Scorpions xúc tiến hoàn thành và cho ra mắt album tiếp theo của họ Blackout. Các Hits, đặc biệt là No one like you nhanh chóng leo lên các bảng xếp hạng của Mĩ, Album được bầu chọn “Album hard rock hay nhất trong năm” và đạt danh hiệu đĩa bạch kim để rồi trong suốt những năm 80 Scorpions giành thêm được cảm tình của rất nhiều các rockfan trên toàn thế giới.
Năm 1984, họ trở thành ban hard rock đầu tiên của Đức có được 3 buổi diễn thành công trước 60.000 fan tại Madison Square Garden (New York). Scorpions cuối cùng cũng đã chỉnh phục được Olympus của Rock. Với 3 album cùng lúc được đề cao trên các bảng xếp hạng của Mỹ: Animal Magnetism (1980), Blackout (1982) và Love at First Sting (1984). Suốt trong hai năm ban nhạc đã rất bận rộn khi liên tục đuợc mời và tham dự với vai trò chính vào các Festivan lớn trên toàn thế giới. Từ Bắc Trung Nam Mỹ, rồi Châu Âu, Châu á ... Malaysia, Thailand, Phillipin, Nhật Bản ... Đây chính là thời hoàng kim của Heavy Rock.
Scorpion đã làm việc không ngừng nghỉ để đạt được những thành công này và luôn được các fan ủng hộ. Với kiểu chơi tinh tế, sắc sảo “melodic rock” cùng giọng ca cao vút, mạnh mẽ xúc cảm của Klaus, ban nhạc như một ban tiêu biểu của Heavy Rock. Bon Jovi, Metallica, Iron Maiden, Def Leppard - những ban nhạc lớn sau này đều đã từng được là khách mời, là những người mở màn cho những Tour diễn lớn toàn cầu của Scorpion. Love at First Sting là một trong những album thành công nhất của ban nhạc cũng như trong lịch sử nhạc Rock, bao gồm những ca khúc có thể nói là tuyệt tác của Scorpions – Rock You Like a Hurricane, Bad Boys Running Wild và đặc biệt là Still Loving You. Các nhà phê bình đua nhau tán dương ban nhạc. Tạp chí danh giá Rolling Stone gọi Scorpions là “Những anh hùng của Heavy Metal” (The Heroes of Heavy Metal”). Ban nhạc được vinh dự có tên trong 30 ban nhạc Rock vĩ đại của thế giới. Bản ballad Still Loving You vang lên ở mọi nơi, chỉ riêng ở Pháp, đã tiêu thụ được 1.7 triệu bản, tạo ra một làn sóng hâm mộ cuồng nhiệt rộng khắp, điều mà chỉ có Beatles trước đó đã làm được ở đây. Và Scorpions đã đóng dấu thương hiệu của mình như thế trên toàn thế giới.
Những kỷ niệm đáng nhớ nhất đối với ban nhạc có lẽ là vào năm 1983 khi US Festivan diễn ra tại San Bernadino Valley (California) họ đã xuất hiện trước 325.000 khán giả và năm 1985 lần đầu tiên biểu diễn tại Nam Mỹ trong Rock in Rio trước 350.000 người hâm mộ.
Năm 1988, album Savage Amusement ra mắt. Nhanh chóng có mặt trên các bảng xếp hạng và được người hâm mộ đón chào khá nồng nhiệt và trong tour diễn mang tên album vòng quanh thế giới. Khoảng thời gian này, trên trường chính trị thế giới đang có xảy ra khá nhiều mâu thuẫn, nhất là giữa Đông và Tây Âu. Những mâu thuẩn này tạo ra một “Bức màn thép” ngăn cách giữa Đông – Tây Âu và thật khó có điều gì có thể xuyên qua được nếu không phải là âm nhạc. Và Scorpions trở thành ban hard rock đầu tiên chơi tại liên bang Sô Viết, xuyên thủng Bức màn thép khi chơi tại Leningrard trước 350.000 fan Soviet trong một chuổi những buổi diễn liên tiếp. Trước đó thì năm 1986 ban nhạc đã có buổi biểu diễn đầu tiên ở Đông Âu tại Budapest (Hungary).
Những hoạt động văn hoá này đã góp phần không nhỏ cho quá trình hàn gắn sự ngăn cách giữa Đông và Tây Âu. Và bằng chứng là một năm sau, tháng 8/1989 – hai mươi năm sau đại hội âm nhạc Woodstock, trước những thành công của Scorpions tại Leningrad, Chính quyền Soviet chấp nhận và cho phép thực hiện Fesival “Âm nhạc hoà bình” tại Moscow. Ngoài Scorpions còn có thêm Bon Jovi, Motley Crue, Skid Row, Cinderrela, Ozzy và một ban bản địa là Gorky Park. Họ đã chơi đầy nhiệt tình trước 260.000 fan tại sân vận động Lenin. Rồi tháng 9 năm ấy, Klaus Meine với ấn tượng sâu sắc của mình về ngày hôm ấy đã viết nên bài ca bất hủ Wind Of Chance.
Tháng 11 cùng năm, một sự kiện đầy bất ngờ diễn ra “Bức tường Berlin” sụp đổ hoàn toàn. Và Wind of Chance như một bài thánh ca vang lên trên toàn thế giới. Trở thành nhạc nền cho cảnh tượng hàng rào Đông Tây Âu bị phá bỏ, và kết thúc chiến tranh lạnh. Một năm sau (1990), Scorpions chơi tại Postdamer Platz - nơi có một mảng tường còn lại - trong tuyệt phẩm diệu kỳ của PINK – The Wall được Roger Water dựng lại. Và một sự kiện chưa từng có nữa đã đến với Scorpions, năm 1991 ban nhạc được mời đến diện Kremli gặp mặt Gorbachev, lãnh đạo cuối cùng của nhà nước Soviet, đây đã trở thành một sự kiện độc nhất trong cả lịch sử của Liên Bang Soviet cũng như lịch sử của Rock.
Tiếp tục với chuỗi thành công của Scorpions. Wind of chance trước khi được phát hành trên toàn thế giới đã nhận được hàng trăm nghìn đơn đặt hàng. Crazy World (1990) lại là một thành công to lớn nữa của ban nhạc. Năm 1992, Scorpions nhân giải World Music Award cho ban nhạc thành công nhất của Đức. Nhưng cuối tour diễn Crazy World, ban nhạc chia tay với tay bass đã theo cùng những vinh quang cay đắng với Scorpions từ năm 1974 Francis Buchholz. Và năm 1993, khi album tiếp theo ra đời Face the Heart thì ban nhạc đã tìm được người thay thế cho vị trí này. Đó là Ralph Rieckermann. Một lần nữa ban nhạc nhận được giải thưởng World Music award vào năm 1994 và tham gia vào buổi diễn tưởng niệm “ông vua” Rock n’ Roll Evis Presley theo lời mời của Priscilla, Lisa và Michael Jacson tại Memphis. Cùng năm này ban nhạc giúp đỡ Liên Hợp Quốc cố gắng đấu tranh vì quyến lợi những người tị nạn do chiến tranh ở Rwanda. Trong một tuần, White Dove được ra đời như một lời kêu gọi tới toàn nhân loại về hoà bình.
Vào cuối năm 95, trước khi hoàn thành Pure Instinct (1996), tay trống kỳ cựu từ năm 1977 Hermann Rarebell vì nhiều lý do đã rút khỏi ban nhạc. Và James Kottak cựu thành viên của Kingdom Come, người mà ban nhạc đã gặp gỡ từ những năm 88 trong tour Savage Amusement gia nhập vào ban nhạc. Vậy là với hai thành viên mới bassit Ralph và Drummer James ban nhạc lại có những chuyển biến mới trong âm nhạc và cách chơi của mình. Chứng tỏ họ vẫn còn là những đỉnh núi trên sân khấu Rock trên toàn thế giới. Họ tiếp tục khắc sâu tên mình bằng việc thu về thêm nhiều những album vàng và bạch kim. Tháng 11 năm 1996, Scorpions một lần nữa lại là người tiên phong khi là rock ban đầu tiên của thế giới chơi tại Beirut sau khi cuộc chiến tranh ở Lebanon kết thúc.
Năm 1999, Eye to Eye ra đời, trên cover của album chỉ có hình ảnh của Rudolf, Klaus và Matthias. Bản thân album đã chứng tỏ tài năng của ban nhạc không hề giảm đi theo năm tháng, mặc dù đã không còn trẻ trung sôi nổi nhưng sức sáng tạo của họ vẫn vô cùng mãnh liệt, với những hit như Mysterious, Yellow Butterfly, Eye to eye ... và đặc biệt là With Du Bist So Schmutzig (You’re So Dirty) ca khúc tiếng Đức đầu tiêng của Scorpions. Thành công nối tiếp thành công, tháng 11 cùng năm Năm 1999 nhân kỷ niệm 10 năm ngày thống nhất nước Đức, Scorpions đã vinh dự được mời tham gia biểu diễn tại cổng chào của thành phố Berlin, một vinh dự mà không phải Rock ban nào cũng có thể có được.
Đúng như khẩu hiệu mà ban nhạc đã đặt ra “Don’t stop at the top” Scorpions bắt đầu thiên niên kỷ mới bằng một cuộc thay áo cho âm nhạc của mình. Họ tự tin quyết định hợp tác cùng dàn nhạc giao hưởng nổi tiếng Berlin Phiharmonic dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng Herbert von Karajan. Và sau nhiều ngày làm việc hăng say tại nhiều phòng thu uy tín, với sự chuẩn bị ngiêm túc Moment of Glory hoàn thành và ra mắt tháng 6 năm 2000. Một album gồm các tuyệt phẩm của Scorpions từ trước đến giờ, nhưng được thổi một luồng sinh khí mới mẻ bởi sự kết hợp tài tình của ban nhạc và dàn nhạc giao hưởng. Sẽ thật là tiếc nếu như bạn là một người yêu thích Scorpions mà lại chưa được thưởng thức album này của họ.
Mới đây nhất tháng 06/2004, album thứ 20 của ban nhạc Unbreakable ra đời đánh dấu sự trở lại của những con bọ cạp trên sân khấu Hard n’ Heavy thế giới. Album là những kết tinh âm nhạc của Scorpions sau bao năm cống hiên. “Với album mới này chúng tôi đã trở về với những gì mà Scorpions đã thực sự mang danh. Nhạc rock thủ công. Nhặt nhạc cụ lên, cắm nó vào, và CHƠI” Matthias đã phát biểu như thế. Với sự có mặt của tay bass mới Pawe Mciwoda, qua album này Scorpions đã chứng tở rằng họ không hề có ý định lùi bước, và tất cả chúng ta, những người yêu mến họ hãy cùng chúc cho ban nhạc sẽ luôn như những gì họ đã từng thể hiện, cho những thành công mới hơn và rực rỡ hơn sẽ đến trong tương lai.
------------------------------------------------------------------------------------
Nghe bạn catthienphong nói có vẻ cũng biết về âm nhạc 1 tí đấy vậy mình xin hỏi bạn 1 câu bạn có biết band nhạc M.S.G không ,nó được viết tắt bởi cái ,ai là thủ lĩnh và được thành lập năm nào
trưa nay về mình viết về Eagles cho bạn xem Eagles là rock hay cái j nhé
No comments:
Post a Comment